Kinh Thành Về Đêm (Dạ Lan Kinh Hoa)

Chương 10: Nay hải đường thơm ngát (2)



*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Tạ Vụ Thanh hơi nhướng mày.

Đào ngàn năm?

“Có thể… không chính xác”, cô rời khỏi ghế gỗ đỏ bên cạnh anh, vòng ra sau bàn bát tiên, “Nhưng ý tứ cũng không sai biệt lắm”.

Để chặn miệng Tạ Vụ Thanh, cô chỉ tay vào chậu than đang cháy đỏ, nói: “Nóng quá, anh không thấy nóng sao?”

Tạ Vụ Thanh cười, ngồi trở về: “Chỗ trồng hải đường, không thể quá lạnh được”.

Lời này vừa nói, cả phòng như ngát hương thơm.

Khung cửa có người gõ hai tiếng.

Ánh mắt Tạ Vụ Thanh vẫn đặt trên người cô: “Vào đi”.

Người vén rèm đi vào là một thanh niên mặc âu phục mềm mại, đôi mắt của hắn so với con gái bình thường còn xinh đẹp hơn, trong mắt tràn ngập vẻ hứng thú. Hắn vừa nhìn thấy Hà Vị liền mỉm cười: “Đây là chị dâu à?”



Hà Vị bị hỏi ngây ngốc.

Tạ Vụ Thanh đứng dậy khỏi ghế, hỏi người thanh niên: “Anh khi nào nói, người cậu gặp hôm nay là chị dâu, hửm?”

Đặng Nguyên Sơ hoang mang, mắt liếc xung quanh, nhìn thấy trên giường sau tấm rèm châu chăn mền còn chưa xếp gọn… Nhất thời trong lòng rõ ràng, Tạ Vụ Thanh vẫn là Tạ Vụ Thanh trước đây, binh vô thường hình [1], hành động gian trá xảo quyệt, lúc nào cũng nói một đằng nghĩ một nẻo. 

[1] Câu nói trong “Binh pháp Tôn Tử” về đạo dùng binh – “Binh vô thường thế, thuỷ vô thường hình”, có nghĩa là người dụng binh như nước chảy, vô định biến ảo, tuỳ thời mà ứng chiến, theo sự thay đổi của địch mà biến nó thành lợi thế của mình để giành thắng lợi.

“Là học trò đường đột”, hắn thu lại ý cười, thẳng lưng hành quân lễ, trịnh trọng nói: “Thầy Tạ”.

Tạ Vụ Thanh trầm mặc một hồi mới dùng quân lễ đáp lại.

Đặng Nguyên Sơ chậm rãi hạ tay phải xuống, hai mắt phiếm hồng ánh lên ý cười, nhẹ giọng nói: “Không nghĩ tới, chúng ta còn có thể sống sót gặp nhau”.

Tạ Vụ Thanh hơi gật đầu, cũng cảm khái. Nhưng anh không mừng rỡ xúc động như học trò của mình, bình đạm nói: “Ngồi trước đã”. Hết thảy những cảm xúc xa cách lâu ngày gặp lại đều che giấu dưới đôi mắt ấy.

Ba người lần lượt ngồi xuống.

Hà Vị lặng lẽ kéo váy dưới bàn, sợ giày bọn họ vô tình giẫm lên… Ủng của Tạ Vụ Thanh vừa vặn đá trúng một góc chân váy, cô kinh ngạc nhưng thấy anh vẫn bình thản, hỏi chuyện Đặng Nguyên Sơ: “Cậu nói trước?”

“Được”, Đặng Nguyên Sơ đáp lời, nói với Hà Vị, “Để tôi tự giới thiệu một chút, tôi tên Đặng Nguyên sơ. Anh Thanh là học trưởng cũ của tôi, cũng là giáo viên của khoá tôi theo học”.

“Xin chào”. Cô gật nhẹ đầu.

“Tối qua tôi đã suy xét rất kỹ yêu cầu của anh Thanh”, Đặng Nguyên Sơ nghiêm túc nói, “Bản thân tôi không có vấn đề gì, ngay ngày hôm nay có thể gióng trống khua chiêng với toàn thành Bắc Kinh chuyện mình theo đuổi cô hai Hà”.

Hà Vị không theo kịp suy nghĩ của hắn.

Cô nhìn sang Tạ Vụ Thanh, lại nhìn Đặng Nguyên Sơ: “Sao phải theo đuổi?”

“Cô hai nghe tôi nói xong đã”, Đặng Nguyên Sơ giải thích, “Chỉ cần là người có quan hệ với anh Thanh, đều rất khó sóng yên biển lặng. Một khi ——” Hắn hơi do dự, không biết có nên nói rõ không.

“Tôi và cô ấy không có lời giấu diếm”. Tạ Vụ Thanh nói.

Hà Vị bất ngờ nhìn anh. Tạ Vụ Thanh giống như chỉ nói một câu rất bình thường, thần sắc không đổi.

Đặng Nguyên Sơ yên tâm nói tiếp: “Một khi anh Thanh rời khỏi Bắc Kinh, cần tôi giúp đỡ cô”.

Chuyện này Tạ Vụ Thanh đã nói rồi, nhưng mà… không phải muốn xem mắt sao?

Đặng Nguyên Sơ thấy cô không đáp, lại như khẳng định: “Có điều đây là do tôi đơn phương tình nguyện, cô hai nếu như thích ai hay có tình cảm với ai, muốn gả cho ai đều có thể. Tôi chỉ lo việc theo đuổi của tôi, không liên quan đến bản thân cô. Anh Thanh lần này an bài như thế, cũng chỉ cẩn thận đề phòng thôi”, hắn cuối cùng nói, “Sau này ở kinh thành, tôi là đường lui của cô hai. Xin cô hai yên tâm, an nguy của cô, so với sinh tử của tôi càng quan trọng hơn”.

“Tôi và cậu không thân không thích”, chỉ mới gặp mặt, cô lắc đầu, “Nói lời này quá nghiêm trọng rồi”.

“Anh Thanh đã nhờ cậy, có chết vạn lần cũng không chối từ”. Đặng Nguyên Sơ trịnh trọng hứa hẹn.

Nhất thời cô không biết nên đáp lại thế nào. Bọn họ đều là anh em tình thâm nghĩa trọng, mỗi người đều không tiếc dùng mạng của mình để bảo vệ nhau.

“Nói xong rồi”. Đặng Nguyên Sơ nói hết chuyện trong lòng, người cũng thoải mái hơn.

Tạ Vụ Thanh từ đầu chí cuối như người ngoài cuộc, giờ phút này mới mở miệng hỏi: “Uống trà gì?”

Đặng Nguyên Sơ xua tay, thở dài nói: “Mới từ Đàm Gia Thái qua đây, người cần xả giao nhiều, em mới ăn được có hai đũa, uống trà đã thấy no”.

Xong rồi sao? Chỉ có Hà Vị vẫn còn mờ mịt.

Dáng vẻ Tạ Vụ Thanh như cười như không rơi vào mắt cô khiến cô vỡ lẽ, chuyện xem mắt căn bản chỉ là vỏ bọc bên ngoài, là kế mà Tạ Vụ Thanh bày ra để qua mặt mấy lão hồ ly. Cô nhìn anh đầy khó tin.

“Cô hai thường ở kinh thành không?” Đặng Nguyên Sơ đối với cô ôm lòng hiếu kỳ không kém các quan quân ngoài sân là bao, chỉ ngại có Tạ Vụ Thanh ở đây, không tiện trắng trợn hỏi thăm, trước mắt cứ thư thả nói chuyện: “Từng đến Đàm Gia Thái chưa?”

“Cũng thường đến”, cô khách sáo đáp, “Cậu không ăn nhiều món thì thật đáng tiếc, nơi đó có bào ngư kho tàu với vi cá chưng vàng, còn có gà thái lát phết dầu trắng là nổi tiếng nhất”.

Đặng Nguyên Sơ tiếc nuối: “Ngược lại tôi không để ý đồ ăn trên bàn lắm, trước lúc đi chỉ nếm thử ngụm canh yến hầm”.

“Canh yến hầm cũng không tệ”, cô cười, “Ngày khác có dịp đưa anh đi ăn đồ ngon”.

Quán ăn tư gia ở kinh thành có rất nhiều, đều là những người từng hầu hạ trong quan phủ trước đây. Ngày xưa quan lớn thích nuôi đầu bếp nổi tiếng trong nhà, thỉnh thoảng tụ tập bạn bè đến đàm đạo vui chơi, từ đó trở đi kinh doanh quán ăn tư gia bắt đầu phát triển, Đàm Gia Thái là nơi có tiếng nhất trong số đó. “Hí giới vô xoang bất học Đàm; Thực giới vô khẩu bất khoa Đàm” [2], nửa câu sau chính là chỉ Đàm Gia Thái.

[2] Đây là câu nói nổi tiếng thời xưa lưu hành trong thành Bắc Kinh. Tạm dịch: Trong giới hí kịch nếu không học theo họ Đàm thì chính là người không biết hát, trong giới ẩm thực nếu không khen ngợi họ Đàm thì chính là người không biết ăn. 

Đại khái là khen 2 họ Đàm này; “Đàm” trong vế đầu tiên là chỉ Đàm Hâm Bồi – kép hát nổi tiếng cuối thời Thanh được gọi là “Linh giới đại vương” (vua trong giới đào hí), ông thường được các vua chúa trong cung mời vào hát xướng; họ “Đàm” vế sau là chỉ Đàm Diễm Thanh – chưởng môn của Đàm Gia Thái, nơi kinh doanh theo kiểu đàm đạo thưởng thức ẩm thực. Tương truyền người tổ chức tiệc ở Đàm Gia Thái khi đến phải chừa một chỗ ngồi và một bộ bát đũa cho Đàm Diễm Thanh. Trong lúc dùng bữa, Đàm Diễm Thanh sẽ đến ăn cùng chủ tiệc, ông chỉ gắp một đũa, thưởng thức một ít, hàn huyên vài câu rồi rời đi, đây được gọi là “nhã hứng” thời đó.

Hai người nói từ Đàm Gia Thái đến đầu bếp riêng của quan phủ, lại nhắc đến món ăn trong cung đình… càng nói càng thân thiết. Đặng Nguyên Sơ nghe kể chuyện hăng say, kéo ghế ngồi trước mặt cô.

“Chờ ngày khác anh có thời gian, chúng ta đi ngõ Mễ”, cô cao hứng nói, cũng ghé sát lại, “Chỗ đó không chỉ có Đàm Gia Thái mà còn có vịt quay của Tiện Nghi Phường[3] ——”

[3] Vịt quay của Tiện Nghi Phường là một quán ăn nổi tiếng lâu đời ở Bắc Kinh, bắt đầu kinh doanh từ năm 1416 và được đổi mới thành lập lần nữa vào năm 1855.

“Không cần chờ ngày khác”, Tạ Vụ Thanh ngồi bên cạnh đề nghị, “Hôm nay đi luôn”.

Đoạn đối thoại giữa hai người bị phá vỡ, cùng lúc quay lại nhìn Tạ Vụ Thanh.

Cô ngẫm nghĩ, cũng không sao, dù gì vẫn phải ăn cơm trưa, vì thế nghĩ đi theo Tạ Vụ Thanh và Đặng Nguyên Sơ cũng ổn.

Đặng Nguyên Sơ trong lòng lại trải qua trăm ngàn lần phân tích rồi suy đoán dựa theo mấy lời đồn đãi bên ngoài về học trưởng trước kia của mình và là thầy Tạ hiện nay, lại xem xét hành động trong ngoài của Tạ Vụ Thanh một phen, cuối cùng kết luận —— ngàn lần không thể đi.

“Tối qua say rượu đến giờ đầu vẫn còn đau, cũng không có khẩu vị ăn uống”, Đặng Nguyên Sơ một tay đỡ trán, nhíu mày đáng thương, “Có thể để tôi nghỉ ngơi mấy canh giờ được không?”

Tạ Vụ Thanh sao cũng được.

Công tử Đặng như được đại xá, chết sống không chịu ngồi nữa, muốn đến sương phòng phía tây mượn một cái giường ngủ.

Tạ Vụ Thanh thấy hắn vừa đi, liền đến cạnh móc treo lấy áo khoác của Hà Vị cùng quân trang của mình, lúc vén rèm định đi ra thì bị Hà Vị đoạt mất một bộ: “Em muốn ngắm quân trang cùng bội đao của anh, anh chờ em một lát”.

Áo khoác của cô vẫn nằm trên tay Tạ Vụ Thanh, mà quân trang của anh lại bị cô đoạt mất. Cô gái giành lấy quần áo của người ta đã sớm chui vào trong phòng ngủ.

Tạ Vụ Thanh không hiểu sao cô lại muốn xem quân trang và bội đao của mình, nhưng ít nhất anh hiểu được một đạo lý, tâm tư thiếu nữ nếu không đoán ra thì không nên cố gắng truy hỏi, giữ lại một đường lui mới có thể tiếp tục ở chung.



Hà Vị ở trong, cẩn thận phủi mấy sợi lông hồ ly nhỏ dính trên quân phục. Cô nên sớm biết, choàng cổ lót lông hồ ly thường rụng lông, áo khoác của cô trắng ngần nên nhìn không ra, mà quân phục của anh lại tối màu, tuy không dính nhiều lắm nhưng vô cùng bắt mắt.

Cô nhanh chóng phủi xong mấy sợi lông, định ra ngoài thì thoáng thấy trên bàn sách cạnh cửa sổ có hai tờ giấy dài màu trắng. Nó còn bị một cái nghiên mực nặng nề đè lên, lặng lẽ nằm dưới bóng nắng đổ dài trên song cửa loang lổ. Giấy viết:

“Anh cùng tôi rồi sẽ tan thành bụi đất,

Chỉ có núi biển Hoa Hạ mãi tồn vinh”

Là chữ của Tạ Vụ Thanh.

Giấy trắng lay động nhẹ nhàng, vì trời không nổi gió nên đứng yên. Giống như tất cả đồ vật trong phòng, từ bàn ghế giá sách, máy ghi âm hay bội đao. Yên tĩnh đến mức khiến cô khó thở.

“Xem xong chưa?” Người ngoài rèm hỏi vọng vào.

Cô như bừng tỉnh, vội vàng ôm quân phục của anh cúi đầu đi ra, lại suýt nữa lao vào vòm ngực Tạ Vụ Thanh.

“Không phải muốn xem bội đao sao?” Anh hỏi, “Không thấy em trở ra”.

“Anh… chăn mền anh loạn như thế, em không ra được”.

Tạ Vụ Thanh bị chọc cười.

Lúc này anh mới nhớ, đêm qua đang ngủ giữa chừng lại muốn ngồi dậy mài mực viết vài chữ, từ đó không trở lên giường nữa, cũng không để ý chuyện này.

Hà Vị vốn muốn hỏi sao anh không về khách sạn Lục Quốc, ngẫm lại, hai ngày nay chắc anh không muốn nói chuyện với người khác nên vẫn kiên quyết ở lại Bách Hoa Thâm Xử, vì thế một câu thốt ra khỏi miệng lại đổi thành: “Lâm phó quan không giúp anh sao?”

“Chuyện của anh trước giờ đều tự mình làm, hơn nữa còn là phòng ngủ”, anh lại cười, “Từ lúc anh bắt đầu ở đến giờ, em là người thứ hai bước vào đây”.

Sớm biết thế… đã không vào.

Tạ Vụ Thanh nhận quân phục trên tay cô, vừa khoác lên người, vừa vén rèm ra ngoài.

Tạ Vụ Thanh tất nhiên không phải ngẫu hứng đưa cô đi ăn cơm. Hai người đến trước ngõ Mễ, sớm đã có người đặt chỗ ở Đàm Gia Thái. Anh sống ở kinh thành như sa vào ao rượu rừng thịt, bạn bè khắp nam bắc bốn phương đều tụ về ngày đêm bầu bạn. Hôm nay quyết định đến đây ăn cơm vội vàng nên không kịp sắp xếp nhiều, chỉ hẹn được ba cô gái, hai trái một phải vây quanh Tạ Vụ Thanh. Có điều dù mang thêm nhiều giai nhân hơn nữa cũng không ai lấn át được cô hai Hà.

Thanh danh Hà Vị rất lớn, không chỉ riêng chuyện cô li kinh phản đạo, mà còn bởi vì cô sinh ra trưởng thành quả thật xinh đẹp yêu kiều. Hôm nay cô lại mặc trang phục long trọng, ngồi vào ghế dựa trong góc, một tay nâng cằm nhìn chằm chằm giá trưng đồ cổ trước mặt, đã đủ để thực khách qua lại trong quán nhớ nhung mười ngày nửa tháng. Từ lâu cô đã sớm quen với mấy cảnh ồn ào náo nhiệt này, ai muốn nhìn thì nhìn, lại càng khiến người ta nảy sinh không ít ảo tưởng.

Người mang thức ăn lên không biết cô hai Hà là ai, nhưng đều bất giác xoay người nhìn cô nhiều hơn một chút.

Cô nghịch đôi đũa bằng bạc có khắc hoa văn gợn sóng trong tay, đuôi đũa có đính một sợi xích bạc tinh tế, mỗi lần đong đưa đều phát ra tiếng động. Tạ Vụ Thanh ngồi cạnh đang nghe cô gái có đôi mắt màu hổ phách bên trái nói chuyện.

Cô nghe hai người họ nói muốn đi xem kịch văn minh[4], nhẹ nhàng dùng đũa khảy khảy mấy miếng hổ trảo măng trong bát. Có người đứng cạnh bình phong, thấp giọng nói gì đó với Lâm phó quan đang chờ bên ngoài.

[4] Kịch văn minh (hay còn gọi là kịch hiện đại) là một loại hình kịch nói tân tiến du nhập vào Trung Quốc vào thời dân quốc, kịch lấy hành động và lời nói làm phương thức biểu đạt chính. Kịch thường không có kịch bản chính thức, hầu hết các cảnh đều do diễn viên tự giác ứng biến.

Chưa đến hai câu, Lâm phó quan đi vào, nhìn chỗ cô và Tạ Vụ Thanh: “Có một vị công tử muốn kính rượu cô hai Hà”.

Cô?

Hà Vị còn chưa kịp nói, người bên bàn đã từ chối trước: “Không biết hôm nay ai là chủ mời khách sao?”

Đám người trong quán có ai không phải là công tử ca ngày thường hoành hành bá đạo, mà suốt một canh giờ qua không ai dám hó hé kính rượi cô hai Hà, xem như lần đầu biết hai chữ “đúng mực” viết thế nào. Trong số có kẻ đang tiếc nuối vì trước lúc Tạ Vụ Thanh vào kinh không tận mắt đến gặp cô hai Hà, để công tử Tạ gia ở phương Nam đến giành trước, còn ở chỗ này không biết thức thời, khiến sắc mặt cả đám vô cùng khó coi.

Cánh tay Tạ Vụ Thanh khoác lên lưng ghế cô: “Có muốn gặp không?”

Cô sợ là khách đi tàu nhà mình, hỏi Lâm phó quan: “Ai vậy?”

“Đại công tử Triệu gia”.

Không chỉ người đàn ông ngồi bên bàn, đến cả ba cô gái hầu chuyện cũng dừng đũa.

Chính là người trước kia định cưới Hà Vị, giữa chừng đột nhiên đổi ý, cùng với một cô gái khác thuộc dòng thứ Hà gia là Hà Chí Trăn quyết định tháng hai năm sau sẽ kết hôn… là đại công tử Triệu gia Triệu Ứng Khác sao?

Phòng ăn chưa lúc nào yên lặng đến thế.

Tạ Vụ Thanh không nói gì, chậm rãi tựa ra sau ghế, trầm mặc kỳ lạ.

“Có muốn gặp không?” Anh lặp lại câu hỏi Hà Vị lúc nảy.

Nếu không gặp, những người ở đây sẽ hiểu lầm cô còn để ý chuyện lúc trước Triệu Ứng Khác huỷ hôn, không bằng cứ bình thản đáp ứng một lần. Nhưng hôm nay lại mang tiếng là Tạ Vụ Thanh mời khách, nếu chuyện Triệu Ứng Khác đến mời rượu bị truyền ra bên ngoài cũng không dễ nghe…

Tạ Vụ Thanh biết sự đắn đo của cô, nói: “Em chịu được một chén rượu của hắn”. Anh ám chỉ chuyện ở Thiên Tân.

Anh phất tay, muốn Lâm phó quan gọi người đến, lại bị Hà Vị kéo về.

Cô ấn tay anh xuống: “Em không nói muốn gặp anh ta”. Cần gì phải tự rước phiền toái.



Trước ánh mắt nhìn chằm chằm của mọi người, cô nắm lấy tay Tạ Vụ Thanh, xem như là lần thân mật nhất của hai người trong hôm nay.

Cô nhác thấy Tạ Vụ Thanh trở tay, vô cùng tự nhiên nắm chặt tay mình.

Anh nói với Lâm phó quan: “Đi nói lại, cô hai Hà không muốn gặp”.

Toàn bộ tinh thần của cô đều rơi vào nơi hai bàn tay đan chặt. Thật ra sức lực tay anh không mạnh lắm, nắm cũng không đúng… Cô chầm chậm cử động muốn rút tay về. Anh không ép buộc, tuỳ ý để cô “bỏ chạy”.

“Lâm phó quan”. Cô bỗng nhiên hồi hồn, vội vàng gọi phó quan lại.

Tạ Vụ Thanh nhìn cô.

“Anh nói với anh ta”, cô biết Triệu Ứng Khác không phải người dễ dàng từ bỏ mục đích, nói một câu liền có thể đuổi đi, trong lòng tính toán một lượt, “Nói hôm nay tôi theo hầu chuyện công tử Tạ gia, không muốn vì một chút chuyện xưa không đáng nhắc mà khiến người bên cạnh mất hứng, nên không muốn gặp”.

Phó quan đồng ý, vô cùng vui vẻ rời đi.

“Em nói vậy, không sao chứ?” Hà Vị nhẹ giọng hỏi.

“Không có gì không thể nói”, Tạ Vụ Thanh đáp lời: “Đều nói sự thật mà thôi”.

…Người này, chiếm tiện nghi của cô đến nghiện rồi sao.

Hà Vị mím môi, liếc anh, không lên tiếng.

Tạ Vụ Thanh nhẹ rút đôi đũa bạc trong tay Hà Vị, gắp thêm cho cô một lát gà phết dầu trắng cuối cùng, sau đó đích thân đứng dậy, dưới ánh nến cầm lấy ấm trà cổ bằng sứ trên bàn, rót trà cho cô. Hà Vị từng không ít lần dùng cơm xả giao với người khác, cũng thường được chủ tiệc châm trà, từ giai nhân đến công tử quý khí đều có đủ. Nhưng lần này lại được một công tử như Tạ Vụ Thanh, mang trên người danh xưng thanh quý, lại một thân quân trang nghiêm cẩn, châm trà rót nước cho cô trước mặt bao người, đây là trải nghiệm đầu tiên.

Cô chống cằm, nhìn mấy vị thân sĩ mặc áo sơ mi nghiêm túc ngồi đầy xung quanh, chỉ có anh mặc áo sơ mi không cài cúc cổ. Mắt cô nhìn xuống, lại thấy xương quai xanh lấp ló bên trong, không biết sao nhớ đến thắt lưng trơn nhẵn kia. Trong đầu bất giác nghĩa đến câu: Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh… [5]

[5] Trích trong bài thơ “Khiển hoài” của Đỗ Mục, có nghĩa là “người con gái eo thon mảnh mai nhẹ nhàng chỉ cần một bàn tay đã giữ được”

Đang nghĩ ngợi thì Lâm phó quan xuất hiện.

“Công tử Triệu gia nói”, Lâm phó quan nghiêm mặt, “Nếu có công tử Tạ gia ở đây, hắn cũng nên kính một chén rượu”.

Các nhóm khách ngồi xung quanh thần sắc thay đổi, nhìn nhau thảo luận.

Triệu gia tuy không quyền không thế nhưng danh vọng rất cao. Tổ tiên bọn họ vốn là Hoa Kiều, đến cuối thời nhà Thanh thì về nước, từng đi theo Trương hương soái [6]. Sau Cách mạng Tân Hợi, trong nhà hiếm có người làm công chức, chỉ một lòng đi theo con đường nghiên cứu học thuật. Chính vì vậy mấy vị công tử của Triệu gia không có nhiều thành tựu trên quan trường, nhưng đều là tài tử tinh thông văn hoá Trung – Tây, đặc biệt là người tên Triệu Ứng Khác này, hắn là nhã sĩ trong nhã sĩ, là công tử trong công tử.

[6] “Trương hương soái” tên thật là Trương Chi Động, là một viên quan lại, chính trị gia có tiếng vào cuối thời nhà Thanh, là người ủng hộ phái cải cách một cách thận trọng. Ông có nhiều đóng góp trong việc phát triển công nghiệp, canh tân quân đội và nêu cao tư tưởng cứu vãn Thanh triều bằng việc phục hưng Khổng tử

Có thể khiến công tử Triệu không màng lễ nghi, kiên quyết muốn kính rượu người kia, đúng là lần đầu nhìn thấy.

Tạ Vụ Thanh mãi không đáp, anh nhìn chằm chằm tấm bình phong được điêu khắc bằng gỗ tử đàn cách khoảng hai mươi bước, giống như muốn xuyên qua đó quan sát người một mực đòi kính rượu mình. Lâu sau, cuối cùng anh mới lên tiếng: “Trước đòi kính rượu cô hai Hà, sau lại muốn kính rượu tôi, ai không biết còn tưởng hôm nay tôi tổ chức hỉ sự”.

Người ngồi bên cạnh bật cười.

Tạ Vụ Thanh nhìn qua: “Nói với hắn, hôm nay không cần gặp. Nếu Tạ Vụ Thanh tôi may mắn theo đuổi được cô hai Hà, nhất định sẽ đưa thiệp cưới đến Triệu phủ”.

Lâm phó quan đi truyền lời, trở về không công khai như trước, chỉ đến cạnh Tạ Vụ Thanh nói nhỏ hai câu vào tai anh.

Anh không lên tiếng, khẽ phất tay, Lâm phó quan lại lui ra ngoài.

Theo sự hiểu biết của Hà Vị về Triệu Ứng Khác, chắc hẳn hắn đã đi rồi.

Ăn cơm trưa đến tận 3 giờ chiều.

“Còn muốn đi đâu không?” Anh ra khỏi cửa hỏi Hà Vị, “Vẫn mang theo mấy người này sao?” Cô cũng không còn hứng thú đến nơi mình muốn.

Anh lắc đầu: “Không cần”.

Cô phấn chấn hẳn lên, chỉ về cách đó không xa: “Phía trước cách mấy bước có một nơi tên Chính Minh Trai”.

Tạ Vụ Thanh không ý kiến, chỉ đi theo cô. Hai tay Hà Vị đút vào túi áo khoác, giày da giẫm lên bùn đất cũng không để tâm, cô sợ Tạ Vụ Thanh nghĩ mình ăn chưa no, mỉm cười nói: “Em thấy trong phòng anh có rất nhiều điểm tâm, nghĩ chắc anh rất thích ăn. Có điều mấy món đó khá bình thường, em dẫn anh đi ăn đồ ngon”.

Thật ra anh vốn không thích ăn điểm tâm, ghét mấy thứ quá ngọt, nhưng cũng không phản bác cô.

Hà Vị vô cùng cao hứng kể với anh, món nổi tiếng nhất trong quán là chè quả khô, dùng hồng khô nguyên bánh cùng mơ khô nấu nhừ với nước đường, còn có củ sen ngâm lạnh phủ thêm đường hoa quế và đá xay nhuyễn trở thành món điểm tâm giải nhiệt rất tốt: “Tiếc là mùa hè mới ăn được, hiện tại không có”.

Mà mùa hè… chỉ sợ anh đã sớm rời kinh.

Đột nhiên cô không còn tâm trạng nói chuyện nữa.

Hà Vị là khách quen của quán, vừa vào cửa liền dẫn anh băng qua một lối đi thật dài vào trong. Chủ quán biết cô thích ăn đồ ngọt, vì thế đã chuẩn bị sẵn một sạp nhỏ dành riêng cho cô, cười cười nói: “Lần đầu thấy cô hai mời khách”.

Cô chỉ cười đáp lại. Quán điểm tâm toàn mấy món hoa quả đồ ngọt vốn không thích hợp mời khách, người cô đưa đến trước nay đều chỉ có trong nhà.

Chủ quán ôn hoà nhìn Tạ Vụ Thanh rồi lại hỏi cô: “Muốn dùng phần tám món lớn? Hay vẫn là phần tám món nhỏ?”

Cô đáp: “Không ăn hết đâu, vừa mới dùng cơm xong. Giúp tôi chọn đại ba bốn món là được”.

Chủ quán lại hỏi tiếp: “Loại vỏ cứng, vỏ phủ đường, vỏ xốp hay vẫn là món rán giòn?”

“Ông tự quyết định đi”.

Không bao lâu chủ quán đã mang điểm tâm lên, ông kéo tấm bích sa môn[7] ra. 

[7] Bích sa môn là một thiết kế cổ của Trung Quốc, vì khá mỏng nên thường dùng để làm vách ngăn giữa những gian phòng. Bích sa môn được lắp đặt vào phần cột nhà hoặc mái hiên, thường không che chắn được như cửa lớn, có loại bích sa môn còn để trống khoảng giữa để người ta đi lại.





“Em cắt giúp anh”. Hà Vị hơi nghiêng người dựa vào cái bàn thấp trên sạp, cắt một miếng bánh hoa hồng trắng vỏ xốp, trên lớp vỏ trắng xốp mềm có một chữ “mai” đỏ tươi diễm lệ bị tách ra.

Còn lại một đĩa bánh phật thủ cát tường phết bơ, một đĩa bánh cầu nguyện hình hoa đào sáu cánh màu hồng nhạt. Hai chén nhỏ phô mai đông lạnh mướt như ngọc, bởi vì ít nên chỉ có thể ăn kèm.

“Lúc ở Thiên Tân từng hứa dẫn anh đi ăn đồ ngon”, cô sợ tai vách mạch rừng, thấp giọng nói, “Hôm nay cũng giữ lời được rồi”.

Tạ Vụ Thanh nhận ra lúc này cô thoải mái hơn nhiều so với trên bàn ăn ban nảy: “Vừa rồi không vui sao? Hay không thích có người ngồi hầu chuyện?”

“Cũng được, náo nhiệt hơn”, cô lo lắng hỏi, “Chúng ta ở đây bao lâu?”

Dù sao lúc này hai người cũng ngồi trong một gian nhỏ tách biệt với bên ngoài, cô không nắm được thời gian.

Tạ Vụ Thanh nói: “Bích sa môn mỏng thế này cũng không làm được gì, không cần để ý thời gian”.

Trong không gian nhỏ hẹp như thế, anh mặc cô tuỳ ý dựa vào bàn, lại nói mấy câu thế này, muốn không nghĩ vẩn vơ cũng khó. Hai tai cô bị thiêu nóng. Tạ Vụ Thanh giơ tay chỉ về hai bên vách ngăn chưa cao đụng trần, bình tĩnh đánh giá: “Hai chỗ này có ánh sáng chiếu qua, âm thanh nào cũng không ngăn được, nhiều nhất chỉ có thể nói mấy lời âu yếm vô thưởng vô phạt”.

Một quán điểm tâm ngọt tất nhiên cũng chỉ để nói lời âu yếm… Mà không đúng, ai bảo đến quán điểm tâm ngọt thì phải nói lời âu yếm chứ… Cứ như vậy bị anh nói ra lại càng không thích hợp.

Cô đếm cánh hoa đào trên đĩa, tổng cộng có sáu cánh, đếm đi đếm lại vài lần, giống như có thể mọc thêm một cánh nữa vậy: “Không phải anh hẹn cô gái kia xem kịch văn minh ư? Không gấp đi sao?”

Tạ Vụ Thanh ngẫm nghĩ một chút: “Cũng không biết xem gì, em có thích xem gì không?”

Hỏi cô làm gì chứ. Cô rũ mắt nhìn đĩa điểm tâm: “Không có sở thích đặc biệt, chi bằng cứ nghe hí kịch”.

Anh gật đầu, thẳng thắn: “Vậy thì đi thôi”.

Tạ Vụ Thanh thoáng thấy ánh sáng loé lên trong mắt cô, không khỏi bật cười: “Cũng không phải là người không thể hẹn”.

Hà Vị nhìn đĩa bánh hoa đào. Cảm thấy hình như hôm nay màu của vỏ bánh đặc biệt đẹp, trong sắc hồng có thêm vẻ óng ánh, yêu kiều xinh xắn nhưng không tầm thường vô vị.

Tạ Vụ Thanh trước sau không động đũa, cô cũng không ăn nữa. Giờ phút này tĩnh lặng, cô hơi tính toán thời gian tàu ra khơi, hẳn Triệu Ứng Thăng đã bình an lên bờ.

Một khi Triệu Ứng Thăng liên lạc được anh của hắn, chân tướng tự nhiên sẽ rõ. Dựa theo tính tình của Triệu Ứng Khác, chắc hắn sẽ đến bồi tội cô, nói không chừng chuyện xảy ra hôm nay cũng vì lý do này. Thật ra trước đây cô luôn mong chờ ngày được “giải oan rửa hận”, muốn để Triệu Ứng Khác long trọng tặng một phần hậu lễ để xin lỗi mình. Nhưng mấy ngày qua có nhiều chuyện vặt vãnh cần xử lý, cô lại quên mất.

Tạ Vụ Thanh phá vỡ sự im lặng: “Ở cùng chỗ với loại người như anh, có cảm thấy buồn chán quá không?”

Hà Vị không nghĩ đến mấy chuyện râu ria kia nữa, lắc đầu cười: “Chỉ cảm thấy kỳ quái, anh thường không nói nhiều, làm sao để đi xả giao với người ta?”

“Ngược lại không cần xả giao”, anh không quá để tâm, “Dù anh không nói lời nào nhưng cái gì nên có, cái gì nên đến cũng sẽ tìm đến”.

…Chắc là vậy.

“Phiền não của công tử Tạ đây, người như chúng ta không cách nào hiểu được”. Cô trêu chọc anh.

“Vậy à”. Anh cười đáp lại.

Mỗi lần anh nói hai chữ này đều không quá chú tâm, như hỏi như không, khiến người khác không sao đáp lời được.

Bích sa môn một nửa trong suốt, người bên ngoài đi lại như mắc cửi, ánh sáng chiếu vào lúc sáng lúc tối. Hà Vị cùng anh mạnh ai nấy dựa vào bàn lùn trên sạp, giữa ánh sáng mờ ảo khẽ thì thầm, trong lòng bối rối nghĩ, mấy lời anh nói vừa nảy cũng không quá nghiêm túc… ở chỗ này nếu muốn làm gì, vẫn có thể làm được.

“Từ lúc ra khỏi Đàm Gia Thái em cứ thất thần”, người đàn ông trước mặt hỏi, “Vì Triệu Ứng Khác à?”

Nhắc tên người này làm gì? Cô nhìn anh khó hiểu.

Tạ Vụ Thanh cũng chăm chú nhìn cô, nói: “Hắn đến gian phòng tiếp khách, đợi mãi ở đó, nói phải đợi tới khi em chịu gặp hắn thì thôi”.

— HẾT CHƯƠNG 10 —